
Múa mặt nạ Talchum
Múa mặt nạ Talchum
Múa mặt nạ Talchum (탈춤) là một nét văn hóa nghệ thuật độc đáo của Hàn Quốc nói lên tâm tư, nguyện vọng của người dân và ngày nay đã trở thành một trò chơi dân gian truyền thống dễ dàng bắt gặp ở nhiều nơi.
Nguồn gốc ra đời
Talchum trong tiếng Hàn là sự kết hợp giữa “Tal” nghĩa là đeo mặt nạ và “chum” nghĩa là nhảy múa. Chính xác thời điểm ra đời của truyền thống này là không rõ ràng, chưa thể xác định được chính xác hay cụ thể. Nghệ thuật múa mặt nạ Talchum có thể bắt nguồn từ thời cổ đại. Trước đây, người ta xây dựng các tiểu phẩm trong múa mặt nạ Talchum dựa trên những câu chuyện xảy ra hàng ngày.
Có rất nhiều bằng chứng cho thấy múa mặt nạ Talchum rất phổ biến trong thời đại Joseon (khoảng những năm 1392-1910). Đó là thời điểm múa mặt nạ Talchum cũng đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật sân khấu đại chúng tại Hàn Quốc
Ý nghĩa
Thời kỳ Tam Quốc, múa mặt nạ là một nghi lễ đơn giản để giao tiếp với thần. Người ta tin rằng, mặt nạ phản ánh hình ảnh của các vị thần, còn người đeo mặt nạ mang sức mạnh nửa thần nửa người giúp truyền tải những tâm tư của người dân đến thần linh và ngược lại. Múa mặt nạ như một hình thức giao lưu một cách vui vẻ giữa thần linh và người trần.
Đến thời Joseon, múa mặt nạ Talchum phát triển mạnh mẽ theo hình thức khác. Không phải khái niệm thần linh nữa, mà thông qua đó để phản ánh sự giận dữ, những nỗi bất công của người dân thường với các quý tộc, quan lại thời phong kiến.
Khi biểu diễn Talchum, người biểu diễn đứng ở giữa và người dân tụ tập xung quanh vừa xem vừa reo hò cổ vũ. Người biểu diễn đeo mặt nạ, giấu đi thân phận của bản thân và hóa thân vào một nhân vật bất kỳ, được phép nói ra những điều sâu kín, những điều bất bình mà người thường không dám nói.
Từ đó, các vấn đề được đề cập đến cũng đa dạng như lên án sự yếu đuối của kẻ yếu hèn, phê phán các tệ nạn trong xã hội, châm biếm đạo đức giả của tầng lớp quý tộc, phê phán thầy tu phá giới, đồng cảm với cuộc sống của bình dân,… và hơn hết chủ đề vợ cả vợ bé luôn mang lại nhiều tiếng cười cho mọi người.
12 mặt nạ Hahoe di sản văn hóa Hàn Quốc
12 chiếc mặt nạ do Huh Chongkak làm đại diện cho 12 nhân vật khác nhau. 12 nhân vật này bao gồm
-
Yangban – Quý tộc
-
Kaksi – Thiếu nữ trẻ hay cô dâu
-
Chung – Nhà sư Phật giáo
-
Choraengi – Người phục vụ của Yangban
-
Sonpi – Học giả
-
Imae – Người ngốc nghếch và kẻ hầu vô dụng của Sonpi
-
Bune – Vợ lẽ
-
Baekjung – Kẻ giết người
-
Halmi – Bà già
-
Chongkak – Cử nhân
-
Byulchae – Người thu thuế
-
Toktari – Ông già
Nhưng hiện nay 3 chiếc mặt nạ (Chongkak, Byulchae, Toktari) đã bị đánh cắp.
Ngoài ra còn các mặt nạ như
Đặc trưng của mặt nạ Okwangdae (오광대) và Yayu (야유) là các đường kẻ to, đơn giản, thô, tính châm biếm được thể hiện mạnh mẽ.
Mặt nạ Bongsan (봉산) là loại mặt nạ về tầng lớp quý tộc gồm các nhân vật như quý ông, đức lang quân,…
Ngoài ra, còn có mặt nạ Tongyeong Ogwangdae (통영 오광대) được làm bởi trí tưởng tượng của người dân. Họ tưởng tượng ra mặt quỷ nên chiếc mặt nạ có phần châm biếm cực mạnh.
Các loại hình múa mặt nạ Talchum
Talchum là một loại hình nghệ thuật dân gian phổ biến ở nhiều nơi trên đất nước Hàn Quốc. Vì vậy, ở mỗi vùng miền, Talchum lại có những nét đặc trưng khác nhau và mang đến cho khán giả những cảm nhận khác nhau.
Ở làng HaHoe, múa mặt nạ gắn liền với nghi lễ shaman. Thông qua điệu múa mặt nạ, niềm hy vọng về hòa bình và hạnh phúc được gửi gắm đến dân làng trong những buổi lễ thiêng liêng đó.
Điệu múa mặt nạ Okwangdae và Yayu được biểu diễn mang ý nghĩa giải trí qua đó thể hiện tình yêu với quê hương đất nước của các nghệ sĩ.
Các điệu múa uyển chuyển và âm nhạc pha trộn làm tăng sức hấp dẫn và góp phần truyền tải ý nghĩa một cách sâu lắng hơn. Lời nói của người biểu diễn chủ yếu là lời kể chuyện những sẽ xen kẽ như lời bài hát, những câu cảm thán pha hài.
Nếu có cơ hội đến Hàn Quốc hãy đến Seoul Nori Madang nơi bất cứ ai cũng có thể dễ dàng trải nghiệm điệu múa mặt nạ Talchum này.